Alfred Tennyson, tiểu sử: lịch sử, cuộc đời và tác phẩm
Mục lục
Tiểu sử • Câu thơ của sự tinh tế
Alfred Tennyson sinh ngày 6 tháng 8 năm 1809 tại ngôi làng nhỏ Somersby, Lincolnshire (Vương quốc Anh), nơi cha ông là linh mục giáo xứ và cùng gia đình - tổng cộng có mười hai người con - ông sống đến năm 1837.
Xem thêm: Tiểu sử của Christian DiorNhà thơ tương lai Alfred Tennyson là hậu duệ của Vua Edward III của Anh: cha của ông, George Clayton Tennyson, là anh cả trong một gia đình có hai anh em, khi còn trẻ ông có bị cha mình - chủ đất George Tennyson - tước quyền thừa kế để nhường cho em trai mình là Charles, người sau này lấy tên là Charles Tennyson d'Eyncourt. Cha của họ, George thường xuyên thiếu tiền và cuối cùng trở nên nghiện rượu và tinh thần không ổn định.
Alfred và hai người anh trai của mình bắt đầu làm thơ khi còn là một thiếu niên: tuyển tập các bài viết của họ đã được xuất bản tại địa phương khi Alfred mới 17 tuổi. Một trong hai anh em này, Charles Tennyson Turner, sau này kết hôn với Louisa Sellwood, em gái vợ tương lai của Alfred. Anh trai nhà thơ khác là Frederick Tennyson.
Alfred theo học trường trung học King Edward IV ở Louth và vào Trinity College, Cambridge năm 1828. Tại đây, anh tham gia một hội sinh viên bí mật có tên là "Các sứ đồ Cambridge", và gặp Arthur Henry Hallam, người trở thành bạn thân nhất của anh.
Với một trong những bài viết đầu tiên của mình, lấy cảm hứng từ thành phố Timbuktu, ông đã nhận được giải thưởng vào năm 1829. Năm sau, ông xuất bản tập thơ đầu tiên của mình, "Những bài thơ chủ yếu là trữ tình": trong tập có " Claribel" và "Mariana", hai trong số những bài thơ nổi tiếng nhất và nổi tiếng nhất của Alfred Tennyson . Những câu thơ của anh ấy có vẻ quá ngọt ngào đối với các nhà phê bình, nhưng chúng trở nên nổi tiếng đến mức Tennyson được một số nhà văn nổi tiếng nhất thời bấy giờ chú ý, bao gồm cả Samuel Taylor Coleridge.
Cha ông, George qua đời năm 1831: để tang Alfred, Alfred rời Cambridge trước khi tốt nghiệp. Anh trở về nhà xứ, nơi anh chăm sóc mẹ và gia đình đông con. Vào mùa hè, bạn của anh ấy là Arthur Hallam đến sống với Tennysons: trong bối cảnh này, anh ấy yêu và đính hôn với em gái của nhà thơ, Emilia Tennyson.
Năm 1833 Alfred xuất bản tập thơ thứ hai trong đó có bài thơ nổi tiếng nhất của ông "The Lady of Shalott" (Quý bà của Shalott): đó là câu chuyện về một nàng công chúa chỉ có thể nhìn thế giới qua phản chiếu trong gương. Khi Lancelot cưỡi ngựa đến gần tòa tháp nơi cô ấy bị nhốt, cô ấy nhìn anh ta và định mệnh của cô ấy đã hoàn thành: cô ấy chết sau khi lên một chiếc thuyền nhỏ, trên đó cô ấy xuôi dòng sông, con sông có ghi tên cô ấy trên thuyền.nghiêm khắc. Những lời chỉ trích nhắm vào tác phẩm này rất gay gắt: Tennyson vẫn tiếp tục viết, nhưng vẫn nản lòng đến mức phải đợi hơn mười năm để xuất bản một tác phẩm khác.
Cùng thời gian đó, Hallam bị xuất huyết não khi đi nghỉ ở Vienna: ông đột ngột qua đời. Alfred Tennyson , 24 tuổi, vẫn vô cùng đau buồn trước sự ra đi của người bạn trẻ, người đã truyền cảm hứng rất lớn cho anh trong việc sáng tác các bài thơ. Có thể cho rằng cái chết của Hallam cũng là một trong những nguyên nhân khiến Tennyson trì hoãn các ấn phẩm tiếp theo của mình quá lâu.
Tennyson cùng gia đình chuyển đến vùng Essex. Do đầu tư mạo hiểm và không chính xác về mặt kinh tế vào một công ty đồ gỗ nội thất giáo hội, họ mất gần hết số tiền tiết kiệm được.
Năm 1842, khi đang sống một cuộc sống khiêm tốn ở London, Tennyson đã xuất bản hai tập thơ: tập đầu tiên bao gồm các tác phẩm đã xuất bản trước đó, trong khi tập thứ hai bao gồm hầu hết các tác phẩm mới. Các bộ sưu tập lần này ngay lập tức gặt hái thành công rực rỡ. Đây cũng là trường hợp của "The Princess" được xuất bản năm 1847.
Alfred Tennyson đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp văn học của mình vào năm 1850 , khi ông được mệnh danh là "Nhà thơ Laureate" đang diễn ratới William Wordsworth. Cùng năm đó, ông viết kiệt tác "In Memoriam A.H.H." - dành riêng cho người bạn quá cố Hallam - và kết hôn với Emily Sellwood, người mà anh quen khi còn trẻ ở làng Shiplake. Hai đứa con trai Hallam và Lionel sẽ được sinh ra từ cặp đôi này.
Xem thêm: Tiểu sử của Ferzan OzpetekTennyson sẽ giữ vai trò Nhà thơ đoạt giải cho đến ngày ông qua đời, viết những sáng tác đúng và phù hợp với vai trò của mình nhưng có giá trị tầm thường, chẳng hạn như bài thơ được sáng tác để chào đón Alexandra của Đan Mạch khi cô đến Anh để kết hôn với Vua Edward VII tương lai.
Năm 1855, ông sáng tác một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của mình "The Charge of the Light Brigade" ( Sự phụ trách của lữ đoàn ánh sáng ), một lời tri ân cảm động dành cho các hiệp sĩ Anh đã hy sinh trong một lời buộc tội anh hùng nhưng thiếu sáng suốt vào ngày 25 tháng 10 năm 1854 trong Chiến tranh Krym.
Các tác phẩm khác từ thời kỳ này bao gồm "Ode on the Death of the Duke of Wellington" và "Ode Sung at theOpening of the International Exhibition" (tạm dịch: Khúc ca khai mạc triển lãm quốc tế - lễ khai mạc hội chợ quốc tế).
Nữ hoàng Victoria , người rất ngưỡng mộ tác phẩm của Alfed Tennyson, vào năm 1884 đã phong ông làm Nam tước Tennyson của Aldworth (ở Sussex) và của Freshwater trên Isle of Wight . Do đó, ông trở thành nhà văn và nhà thơ đầu tiên được nâng lên hàng ngang hàng của Vương quốc Anh.
Có những đoạn ghi âm do Thomas Edison thực hiện - không may là chất lượng âm thanh thấp - trong đó Alfred Tennyson đọc thuộc lòng một số bài thơ của chính ông ở ngôi thứ nhất (bao gồm cả "Cuộc tấn công của Lữ đoàn Ánh sáng").
Năm 1885, ông xuất bản một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của mình, "Idylls of the King", một tập thơ hoàn toàn dựa trên Vua Arthur và chu kỳ Breton, một chủ đề mà ông đã lấy cảm hứng từ đó bởi những câu chuyện được viết trước đây của Sir Thomas Malory về Vua Arthur huyền thoại. Tác phẩm được Tennyson dành tặng cho Hoàng tử Albert, chồng của Nữ hoàng Victoria.
Nhà thơ tiếp tục viết cho đến tuổi tám mươi: Alfred Tennyson qua đời ngày 6 tháng 10 năm 1892 ở tuổi 83. Ông được chôn cất trong Tu viện Westminster. Con trai của ông, Hallam sẽ kế vị ông với tư cách là Nam tước Tennyson thứ 2; vào năm 1897, ông sẽ cho phép xuất bản tiểu sử của cha mình và một thời gian sau, ông sẽ trở thành thống đốc thứ hai của Úc.